Sức sống ngàn năm của múa rối nước
Giữa dòng chảy của đời sống hiện đại, múa rối nước, một loại hình nghệ thuật dân gian hình thành từ ao làng đồng bằng Bắc Bộ, vẫn bền bỉ tồn tại như một viên ngọc độc bản của văn hóa Việt Nam. Hơn nghìn năm qua, nghệ thuật tưởng như mộc mạc ấy vẫn giữ sức hút đặc biệt, trở thành biểu tượng cho trí tuệ, sự hồn hậu và tinh thần lạc quan của cư dân nông nghiệp lúa nước.
Hình thành từ đời sống làng quê
Múa rối nước xuất phát từ đời sống của người dân đồng bằng Bắc Bộ, nơi con người, làng quê và nước tạo nên một không gian văn hóa thống nhất. Tư liệu cổ như bia Sùng Thiện Diên Linh lập năm 1121 đời Lý cho thấy rối nước đã trở thành loại hình biểu diễn được triều đình tiếp nhận từ rất sớm, chứng minh sự phát triển mạnh mẽ của loại hình nghệ thuật này từ thế kỷ XI.
Dẫu vậy, trước khi hiện diện trong không gian cung đình, múa rối nước đã gắn bó lâu dài với đời sống làng quê. Ao làng từng là sân khấu tự nhiên, nơi người nông dân vừa biểu diễn, vừa chế tác, vừa sáng tạo nên những tích trò phản ánh cuộc sống. Nền văn minh lúa nước tạo nên thẩm mỹ, tinh thần và chất liệu của rối nước: mặt nước không chỉ là môi trường sinh hoạt mà còn là không gian nghệ thuật độc đáo, khác biệt hoàn toàn với mọi loại hình rối trên thế giới.
Từ những hình nhân gỗ thả nổi trên mặt ao phục vụ vui chơi ngày mùa, rối nước dần được nâng tầm thành loại hình diễn xướng chỉnh chu với bố cục, nhịp điệu, hệ thống nhân vật và kỹ thuật điều khiển điêu luyện. Qua các triều đại, rối nước lúc thăng hoa, khi trầm lắng, nhưng chưa bao giờ bị đứt đoạn. Dù bị thu hẹp phạm vi biểu diễn dưới chế độ thực dân phong kiến, người dân làng vẫn bền bỉ gìn giữ rối nước như một phần hồn cốt quê hương.
Khác với tuồng hay chèo vốn nặng tính ước lệ, rối nước phản ánh thế giới của người nông dân bằng cái nhìn hồn hậu, dí dỏm. Các trò diễn như kéo vó tôm, úp nơm, chăn trâu, cấy lúa, đánh cá hay hội làng tái hiện đời sống lao động, đồng thời gửi gắm khát vọng mùa màng bội thu, cuộc sống yên vui. Nhân vật Tễu, linh hồn của rối nước, là đại diện xuất sắc cho trí tuệ dân gian, vừa hài hước, dí dỏm, vừa thông minh sắc sảo.
Nghệ thuật thị giác độc đáo
Múa rối nước là một sân khấu thị giác đặc biệt, kết hợp nhiều yếu tố trong cùng một tổng thể. Quân rối được tạc bằng gỗ sung, mộc mạc nhưng giàu biểu cảm. Mặt nước trở thành sân khấu linh hoạt, còn thủy đình với mái cong, phên che tạo nên không gian đậm chất Việt.

Kỹ thuật điều khiển rối bằng sào, dây và hệ thống máy ngầm đòi hỏi sự khéo léo, bền bỉ và sức lực lớn của nghệ nhân, những người phải đứng dưới mặt nước hàng giờ liền. Âm nhạc dân gian, tiếng trống, tiếng sáo cùng giọng hò reo hòa quyện trong từng động tác của quân rối, tạo nên thế giới nghệ thuật không thể tìm thấy ở bất kỳ nền văn hóa nào khác.
Nhờ vậy, múa rối nước không chỉ có giá trị giải trí mà còn mang giá trị thẩm mỹ sâu sắc. Sự kỳ ảo trong chuyển động, sự bất ngờ trong hiệu ứng thị giác, sự hóm hỉnh trong nội dung khiến người xem, dù là trẻ em hay người lớn, người Việt hay du khách nước ngoài, đều cảm thấy thích thú. Điều này lý giải vì sao từ năm 1984 đến nay, khi rối nước vươn ra thế giới, loại hình nghệ thuật này nhanh chóng trở thành “đại sứ văn hóa” nổi bật của Việt Nam.
Bảo tồn trong thời đại mới
Giai đoạn đổi mới và mở cửa đã mở ra thời kỳ phát triển mạnh mẽ cho rối nước. Nhiều nhà hát tại Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Hội An liên tục sáng đèn, mỗi năm đón hàng triệu lượt khán giả, phần lớn là du khách nước ngoài. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng đặt ra không ít thách thức, đặc biệt là tính thương mại hóa. Trẻ em Việt Nam, những người cần được tiếp cận di sản dân tộc, lại ít có cơ hội thưởng thức rối nước ngay tại quê hương mình. Một số chương trình bị rút ngắn, đơn giản hóa nội dung để phù hợp với thị hiếu khách quốc tế, dẫn đến nguy cơ mất đi chất dân gian vốn có.
Nhiều phường rối nước truyền thống đang đối mặt với tình trạng thiếu người kế nghiệp. Lực lượng nghệ nhân chủ yếu là người cao tuổi, lớp trẻ ít mặn mà với nghề do thu nhập không ổn định và môi trường lao động vất vả. Không ít trò diễn cổ bị thất truyền, kỹ thuật chế tác quân rối và vận hành máy ngầm không còn nhiều người nắm giữ. Nếu không có chiến lược dài hạn để bảo tồn, những giá trị tinh túy của rối nước có thể mất đi vĩnh viễn.
Song chính trong những trăn trở và khó khăn ấy, múa rối nước vẫn có sức hút đặc biệt bởi nó chứa đựng tinh thần lạc quan, mộc mạc và bền bỉ. Mỗi quân rối, mỗi tích trò là một phần ký ức tập thể của dân tộc. Giữa sự đổi thay sâu sắc của xã hội, rối nước nhắc chúng ta nhớ rằng những giá trị truyền thống nếu được gìn giữ đúng cách sẽ có sức sống trường tồn.

NSƯT Chu Lượng, Nguyên Phó Giám đốc Phụ trách Nhà hát Múa rối Thăng Long chia sẻ: “Sự quan tâm và lan tỏa nghệ thuật múa rối nước của giới trẻ hiện nay là một dấu hiệu rất mừng và cấp bách. Sau nhiều năm làm nghề, tôi nhận thấy cần phải tôn vinh vẻ đẹp rối nước và lưu giữ tất cả những giá trị, những hình ảnh về lịch sử, văn hóa Việt trong một 'bảo tàng sống', bởi lẽ nhiều cảnh sinh hoạt và đời sống xung quanh nơi sinh ra nghệ thuật rối nước cũng đã bị biến mất”.
Múa rối nước không chỉ là một sản phẩm biểu diễn, mà còn là cánh cửa mở vào hồn quê đất nước. Giữ gìn rối nước chính là giữ lại một phần căn cước văn hóa dân tộc, để hôm nay và mai sau, những tiếng cười tươi vui của Tễu vẫn vang lên trên mặt nước, phản chiếu tâm hồn người dân đất Việt suốt nghìn năm.