Se gạo thành "tơ" - Giữ hồn làng nghề bánh đa sợi Hưng Hà
Những ngày đầu năm đến cuối hè, làng Me (xã Tân Hòa, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) rộn ràng trong không khí sản xuất bánh đa khô. Từ nửa đêm, các lò tráng bánh đã đỏ rực ánh lửa, nhịp sống làng nghề nhộn nhịp từ sân tráng đến sân phơi.
Làng Me từ lâu đã nổi tiếng với nghề làm bánh đa khô, nhưng khoảng vài năm trở lại đây, người dân thực sự giàu lên nhờ đổi mới phương pháp sản xuất và chú trọng bảo vệ môi trường.
.jpg)
Hiện nay, làng có hơn 130 hộ sản xuất bánh đa truyền thống, tạo việc làm cho hơn 300 lao động. Nhờ có máy móc hỗ trợ, trung bình mỗi ngày cả làng cho ra khoảng 15 tấn bánh đa khô. Nhờ áp dụng công nghệ, tốc độ tráng bánh nhanh và đều hơn, một tháng mỗi gia đình có thể sản xuất khoảng 10 tấn bánh đa thương phẩm.
.jpg)
Quy trình làm bánh đa khô tại làng Me gồm nhiều bước và mất đến 2 ngày mới hoàn thành thành phẩm.

.jpg)












Mỗi năm, các hộ làm nghề hoạt động liên tục trong 9 tháng, đưa ra thị trường khoảng 41.000 tấn bánh đa thương phẩm, tương đương giá trị khoảng 82 tỷ đồng. Sản phẩm không chỉ tiêu thụ tại địa phương mà còn xuất hiện ở các tỉnh phía Bắc như Hưng Yên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội…

Hàng ngày, từ những lò tráng bánh đỏ hồng đến sân phơi rộn rã, tiếng máy cắt sợi hòa cùng ánh nắng và khói lửa tạo nên nhịp sống đặc trưng của làng Me. Với nghề truyền thống được hiện đại hóa, làng bánh đa sợi không chỉ giữ gìn hồn quê mà còn góp phần làm sống động cả không gian làng, nơi mỗi sợi bánh đều mang dấu ấn của bàn tay người thợ và câu chuyện của một cộng đồng gắn bó với nghề qua nhiều thế hệ.