Chuyên đề

Anh hùng LLVTND Nguyễn Như Hành: “Sống để trở về đã là phần thưởng lớn nhất”

Thuỳ Linh, Phương Thảo - CJC 23/08/2025 11:12

Trong căn nhà nhỏ tại phường Kỳ Lừa, tỉnh Lạng Sơn, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Nguyễn Như Hành vẫn giữ được ánh mắt sáng và nụ cười hiền hậu. Mỗi khi nhắc về thời hoa lửa oanh liệt, người lính ấy vẫn không giấu nổi sự nghẹn ngào.

Ông Nguyễn Như Hành sinh năm 1948, là người dân tộc Tày. Năm 1966, khi vừa tròn 18 tuổi, chàng thanh niên miền núi sục sôi nhiệt huyết cách mạng đã xung phong nhập ngũ, tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ năm 1968 đến 1973, người lính trẻ Nguyễn Như Hành tham gia chiến đấu trên chiến trường Lào, cùng đồng đội trải qua muôn vàn gian khổ, hiểm nguy.

Ảnh 1 (6)
Anh hùng LLVTND Nguyễn Như Hành trong buổi trò chuyện cùng phóng viên. (Ảnh: Thùy Linh)

Ký ức ấy được ông nâng niu trong từng tấm ảnh đen trắng đã ố màu, qua những huân, huy chương mà Đảng, Nhà nước trao tặng. Giọng ông nghẹn lại khi nhắc đến trận đánh ngày 20/3/1973 - một dấu mốc khắc sâu trong đời lính: “Lúc đó, máy bay địch bắn phá ác liệt vào trận địa. Súng hỏng, tôi cho anh em vác về phía sau sửa chữa, còn một mình ở lại theo dõi tình hình địch. Khi Đại đội 5, Trung đoàn 148 đánh lui một toán bộ binh, quân địch tháo chạy đúng về phía trận địa chúng tôi. Tôi chủ động đuổi theo và tiêu diệt được 14 tên”.

Hồi tưởng về một thời tuổi trẻ nơi chiến trận, lời kể của ông nhiều lần bị ngắt quãng , như để nuốt xuống nghẹn ngào. Người chỉ huy năm ấy mới 25 tuổi, giờ tóc đã bạc trắng, nhưng ánh mắt vẫn sáng lên khi nhắc đến đồng đội, đến Đại đội 5, Trung đoàn 148 - những con người đã cùng ông chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc.

"Phải thằng Hành mới đánh được"

Dẫu những khoảnh khắc huy hoàng của thời hoa lửa đã trôi đi, thế nhưng với người lính năm xưa, ký ức ấy vẫn luôn in hằn như mốc son lịch sử. Ngồi đối diện với ông, chúng tôi không chỉ nhìn thấy một chiến binh đã quả cảm bắn rơi bốn máy bay địch, mà còn thấy một người đã bước qua tuổi "xưa nay hiếm" với những nếp nhăn và mái tóc bạc sương. Chỉ khi nhắc đến ngày xưa, ánh mắt ông mới chợt lóe lên ngọn lửa của tuổi trẻ, của một thời "súng nổ như ngô rang”.

Ông kể, trong đơn vị có đủ các dân tộc, tiếng Kinh chưa thạo, nhưng “người nọ bảo người kia, giúp nhau thôi”. Đối với ông, tình đồng chí, đồng đội được vun đắp không chỉ bởi khoảnh khắc kề vai sát cánh trong chiến đấu, mà còn từ những việc giản đơn. Khi được hỏi về cảm xúc lần đầu bắn rơi máy bay địch, ông trả lời rất đỗi chân thật: "Mình không bắn nó thì nó bắn mình".

Cũng chính vì sự "hăng máu" đó, cấp trên đã chuyển ông từ pháo binh sang đặc công. "Có biết đặc công là cái gì đâu, bảo đánh là đánh thôi…" - ông cười. “Anh em trong đơn vị cứ bảo: Gọi thằng Hành, phải thằng Hành mới đánh được”.

Ảnh 2 (6)
Những Huân chương, kỷ vật được ông Nguyễn Như Hành gìn giữ như một phần ký ức không thể phai mờ của tuổi trẻ xông pha nơi chiến trường. (Ảnh: Thùy Linh)

Bình thản trước lằn ranh sinh tử

Kiên định với lý tưởng của người lính suốt bao năm tháng, ông Hành và đồng đội tự nhận thức về con đường đầy chông gai đấu tranh cho quyền độc lập, tự chủ. Trong ký ức của ông, có những trận đánh mà hàng trăm lính địch vây kín một ngọn đồi, số lượng áp đảo bộ đội ta. Thay vì sợ hãi, ông đón nhận hiểm nguy với một sự bình thản đến lạ lùng. Nhưng sự bình thản ấy không phải là buông xuôi, cũng không phải vì không sợ chết, mà là một niềm tin sắt đá rằng ở chiến trường, chỉ có một lựa chọn: hoặc là tiêu diệt được quân thù, hoặc là mình hy sinh.

Chiến tranh đã qua đi, nhưng những vết thương cả thể xác lẫn tinh thần của người lính năm xưa vẫn còn dai dẳng. Ông không bao giờ quên những người đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường, và nỗi đau ấy còn ám ảnh hơn cả những vết thương trên thân thể.

“Đâu biết ai còn ai mất đâu, khó lắm. Súng thì cứ nổ như ngô rang… Nhiều lúc chỉ còn biết phải chôn anh em sao cho tử tế. Có cái chăn, cái chiếu thì đắp cho anh em, chứ chẳng còn thời gian đâu mà làm cái khác. Ở đấy không có cuốc xẻng gì đâu, nhiều khi phải lấy dao găm mà khoét. Đồng đội cũ mất gần hết rồi. Thỉnh thoảng trước còn làm thì tạt vào thăm gia đình vợ con ông bà bố mẹ, thăm họ cân đường hộp sữa…”. Đối với ông Hành, đó không đơn giản là sự tri ân mà còn là một lời hứa thiêng liêng, một cách để tưởng nhớ những người đồng chí đã từng kề vai sát cánh.

Ảnh 3 (3)
Bằng phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân - minh chứng cho tinh thần quả cảm của người chiến sĩ trong những năm tháng khốc liệt của chiến tranh. (Ảnh: Thùy Linh)

Năm 1973, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Sau ngày đất nước thống nhất năm 1975, ông tiếp tục công tác tại Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Lạng Sơn, đảm nhiệm cương vị Chỉ huy phó Chính trị.

Trên chặng đường binh nghiệp nhiều cống hiến, ông đã vinh dự được trao tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất, 2 Huân chương Chiến công hạng Ba; 2 lần đạt danh hiệu Chiến sĩ Quyết thắng; 2 lần là Chiến sĩ thi đua cùng 8 bằng khen, giấy khen khác.

Thế nhưng, với ông, phần thưởng lớn nhất không phải là huân chương hay danh hiệu, mà chính là được sống, được trở về sau chiến tranh, được chứng kiến đất nước độc lập, con cháu được lớn lên trong hòa bình.

Viết tiếp câu chuyện hoà bình

“Bây giờ các cháu nó thi nhau kéo lên đấy chơi, chứ Sapa là nơi mình suýt chết đấy” - ký ức đau thương của người cựu chiến binh bỗng ùa về. Ông chia sẻ: ngày đó, khi cả đơn vị đang trải bản đồ ra để định vị quân địch trong lớp sương mù dày đặc thì bất ngờ bị tấn công. “Thế là hi sinh mất ông đại đội trưởng người Cao Bằng", giọng ông nghẹn lại, đầy xót xa.

Ảnh 4 (1)
Anh hùng LLVTND Nguyễn Như Hành bên những phần thưởng cao quý, ghi dấu chặng đường chiến đấu kiên cường và bền bỉ của một người lính trận. (Ảnh: Thùy Linh)

"Mấy ông đi cùng giờ cũng mất rồi" ông nói, ánh mắt nhìn xa xăm như tìm về những bóng hình của đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường. Nỗi cô đơn của người ở lại sau cuộc chiến thấm đẫm trong lời kể của ông, càng làm nổi bật giá trị của hòa bình hôm nay.

Với ông, trách nhiệm của thế hệ trẻ đơn giản là "chấp hành mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng", trân trọng và giữ gìn nền hòa bình mà cha ông đã đánh đổi bằng xương máu. Điều ông gửi gắm cho thế hệ trẻ cũng là điều ông ấp ủ cả đời lính: tiếp nối truyền thống, xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như di nguyện của Bác Hồ.

Khi tiếng súng hãy còn rền vang giữa mưa bom bão đạn, máu xương của những người lính như ông Hành vẫn đổ xuống để giành lấy độc lập, tự do. Ngày nay, giữa trời thu xanh ngát, khi bản Tuyên ngôn Độc lập lại vang lên trước toàn thể đồng bào, ông vẫn như mọi lần, cẩn thận lắng nghe bằng cả con tim người lính.

Được thấy nhân dân rộn ràng trong sắc đỏ cờ hoa, lòng ông dâng lên cảm xúc tự hào thiêng liêng. Cả quãng đời chiến đấu và hy sinh của ông và đồng đội đã hòa vào núi sông, hóa thành vinh quang bất tử của Tổ quốc. Ngày 2/9 không chỉ là một cột mốc lịch sử mà còn là lời nhắc nhở sâu sắc về giá trị của độc lập, tự do. Để lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới, bao chiến sĩ đã mãi ngủ lại chiến trường xưa...

Thuỳ Linh, Phương Thảo - CJC