
Nón quai thao - Nét duyên giữ hồn quan họ
Trong mỗi làn điệu Quan họ thướt tha, hình ảnh liền chị duyên dáng với tà áo tứ thân và chiếc nón quai thao rộng vành đã trở thành biểu tượng không thể thiếu. Điều gì đã khiến chiếc nón tưởng chừng giản dị ấy trở thành biểu tượng bất biến của người Quan họ?
.png)
Quai Thao: Cái tên cất lên từ lịch sử và vẻ đẹp kiêu hãnh
Để thực sự thấu hiểu ý nghĩa sâu xa của chiếc nón quai thao, ta cần ngược dòng thời gian, tìm về gốc rễ từ chính cái tên và hành trình lịch sử đã định hình nên giá trị độc đáo ấy.
Ít ai biết rằng, cái tên “nón quai thao” không đơn thuần là một cách gọi dân gian. Trong chữ Nôm, “quai thao” được viết là 𥶄乖絛, trong đó “quai” (乖) nghĩa là quai nón, còn “thao” (絛) chỉ loại dây mềm làm bằng sợi tơ. Theo Việt Nam từ điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, “thao” nghĩa là “tua kết bằng chỉ”. Theo tư liệu do các nhà giáo, NSƯT và nghệ nhân dòng họ Nguyễn ở làng Yên Mẫn (Bắc Ninh) sưu tầm, “thao” là tên gọi bắt nguồn từ làng Đơ Thao (Triều Khúc), nơi nổi tiếng với nghề dệt quai lụa thủ công cao cấp dành riêng cho loại nón này. Vì thế, cái tên “nón quai thao” không chỉ đơn thuần là mô tả cấu tạo của chiếc nón, mà còn hàm chứa cả một lớp lang văn hóa, lịch sử và nghề thủ công truyền thống đặc sắc của người Việt.

.png)
.png)
Ảnh: Sưu tầm
Hành trình lịch sử của nón quai thao trải dài qua nhiều thế kỷ, gắn liền với áo tứ thân - trang phục truyền thống của phụ nữ Bắc Bộ. Tương truyền, chiếc nón quai thao bắt nguồn từ loại nón thượng, xuất hiện vào thời Trần (thế kỷ XIII-XIV) tại Hải Dương, do các thợ thủ công sáng tạo dành riêng cho cung nữ.
Đến thời Lê Trung Hưng, khoảng thế kỷ XVIII, chiếc nón này được hoàn thiện thêm với phần quai thao - dải lụa mềm mại buông dài, tạo nên vẻ duyên dáng đặc trưng. Dân gian kể rằng ông Vũ Đức Úy, một vị phó sứ triều đình nhà Lê, trong chuyến đi sứ sang Trung Hoa đã học được kỹ nghệ dệt lụa và mang về truyền lại cho làng Đơ Thao (Triều Khúc, Hà Nội).
Từ đó, nghề dệt quai thao ra đời, và chiếc nón quai thao với hình thức vừa thanh thoát, vừa trang trọng đã trở thành một biểu tượng văn hóa độc đáo, gắn liền với người phụ nữ Kinh Bắc.
Ý nghĩa của nón quai thao

Dáng vẻ e lệ, duyên ngầm của người phụ nữ Việt
Chiếc nón quai thao từ lâu đã vượt khỏi chức năng che mưa che nắng để trở thành một biểu tượng thẩm mỹ đặc trưng, gắn với hình ảnh người phụ nữ Bắc Bộ xưa. Sự kết hợp giữa vành nón rộng và dải quai mềm tạo nên một hình thể hài hòa, khiến người phụ nữ như được bao bọc trong một lớp duyên ngầm, gợi nên cảm giác vừa gần vừa xa, vừa hiện diện vừa bí ẩn.
Trong chiếc nón ấy, vẻ đẹp không được phô bày một cách trực diện, mà ẩn hiện sau những cử chỉ khẽ nghiêng đầu, bước đi chậm rãi, ánh mắt liếc qua vành nón, hay cái cúi nhẹ đầy e ấp. Đó là vẻ đẹp của sự kín đáo, thẹn thùng - nét duyên được người xưa trân trọng như một phẩm hạnh cần giữ gìn.
Trong nghệ thuật dân gian hay đời sống thường nhật, hình ảnh người phụ nữ với áo mớ ba, mớ bảy, tay cầm nón quai thao đã trở thành biểu trưng cho sự dịu dàng, đoan trang và tình tứ. Đặc biệt, trong nghệ thuật dân ca Quan họ, chiếc nón không chỉ làm đẹp cho liền chị mà còn là một đạo cụ biểu cảm: mỗi cái nghiêng đầu, nâng nón hay xoay nhẹ đều trở thành động tác biểu lộ ý nhị, duyên dáng.

Sự đoan trang và lòng thành kính trong không gian linh thiêng
Trong các lễ hội làng, dịp tế lễ hay những buổi hát Quan họ cổ truyền diễn ra tại sân đình, hình ảnh những liền chị khoác áo tứ thân, đầu đội hay tay cầm nón quai thao đã trở thành một quy ước bất thành văn, gắn liền với nét đẹp truyền thống của không gian lễ nghi.
Không chỉ vì vẻ ngoài nhã nhặn và thanh lịch, nón còn góp phần giữ sự trang nghiêm cho người đội - che phần đầu như một cách thể hiện sự khiêm cung, giữ gìn sự trong sạch trước bàn thờ tổ tiên và thần linh. Cũng như tục đội khăn vấn khi vào chùa, việc đội nón trong không gian lễ nghi không đơn thuần là thói quen, mà là biểu hiện của lòng thành kính.
Hơn thế, chiếc nón như một lớp màn chắn giữa đời thường và chốn thiêng, giúp người phụ nữ bước vào không gian linh thiêng với tâm thế tôn nghiêm. Trong tâm thức dân gian, mái đình không chỉ là nơi tổ chức lễ hội, mà còn là chốn giao tiếp giữa con người với thần linh, giữa cộng đồng với tổ tiên.
Vì vậy, sự hiện diện của chiếc nón quai thao với dáng tròn duyên dáng và màu sắc trang nhã đã góp phần tạo nên không khí trang nghiêm cho nghi thức, đồng thời thể hiện thái độ sống có chừng mực, có đạo lý của người Việt. Nón quai thao không chỉ đi vào thơ ca như biểu tượng của cái đẹp, mà còn sống trong tín ngưỡng như biểu tượng của sự tôn trọng, thành tâm.
Làng Diềm: Nơi nón quai thao gặp gỡ hồn Quan họ
Nhắc đến nón quai thao trong hát Quan họ, không thể không nhắc đến Làng Diềm (xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh) - nơi được mệnh danh là “chiếc nôi” của Dân ca Quan họ Bắc Ninh.
.png)
Làng Diềm tự hào là một trong 49 làng Quan họ gốc và là ngôi làng duy nhất có đền thờ Vua Bà - Thủy tổ Quan họ - nhân vật huyền thoại được người dân tôn vinh là người đã khai sinh và lan truyền làn điệu dân ca đặc sắc của vùng Kinh Bắc. Với vị thế đặc biệt đó, Làng Diềm trở thành trái tim văn hóa của Quan họ, nơi mà từng câu hát, từng tập tục, từng sinh hoạt đời thường đều thấp thoáng bóng dáng của văn hóa Quan họ truyền thống.
Quần thể di tích Đền Vua Bà, Đền Cùng và Giếng Ngọc tại Làng Diềm càng làm nổi bật hơn vai trò trung tâm của ngôi làng này trong dòng chảy lịch sử và tâm linh của Quan họ. Nổi bật nhất là Đền Vua Bà, nơi thờ người được xem là Thủy tổ của Quan họ. Ngôi đền là biểu tượng linh thiêng cho lòng biết ơn và sự tôn kính của cộng đồng đối với người đã khai sinh dòng dân ca trữ tình, sâu lắng.
Bên cạnh là Giếng Ngọc, nơi mỗi năm các cụ cao niên thực hiện nghi lễ rước nước thiêng tắm tượng Vua Bà trong lễ hội làng Diềm, thể hiện sự thành kính và niềm tin rằng nguồn nước ấy sẽ tiếp thêm linh khí cho làn điệu Quan họ. Bên cạnh đó, Đền Cùng cũng là một phần không thể thiếu trong không gian văn hóa Quan họ, nơi cộng đồng hướng về tổ tiên, về cội nguồn truyền thống và gìn giữ những giá trị gắn bó với tín ngưỡng bản địa.
.png)
Tại Làng Diềm, hát Quan họ không đơn thuần là một loại hình nghệ thuật, mà đã hòa vào từng nhịp sống và trở thành hơi thở không thể thiếu của cộng đồng. Các liền anh, liền chị học hát từ thuở bé, từ gia đình, dòng họ, và từ những buổi hát giao lưu tại các làng kết chạ. Tình nghĩa Quan họ, với sự thủy chung, trọng tình, trọng nghĩa đã thấm nhuần vào tâm hồn của người dân nơi đây.
Nghệ sĩ Ưu tú Minh Thùy, Nghệ sỹ Việt Nam duy nhất của năm 2010 được nhận danh hiệu Nghệ nhân thế giới bộc bạch về hành trình đến với Quan họ: "Tôi sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Bắc Ninh, làn điệu dân ca đã thấm vào máu thịt từ thuở nhỏ. Tôi yêu thích Quan họ từ năm 16 tuổi. Khi cuộc sống vật chất còn khó khăn, cả làng đôi khi chỉ có một chiếc tivi, tôi thường được nghe các cô chú hát trên đài phát thanh và cứ thế mà hát theo. Tình yêu cứ lớn dần lúc nào không hay.”
.png)
Và chính trong môi trường văn hóa giàu bản sắc và tình nghĩa này, chiếc nón quai thao càng trở nên ý nghĩa. Nó không chỉ là vật che nắng che mưa mà còn là một phần của tâm hồn Quan họ, vật chứng của những cuộc hát giao duyên thắm đượm tình người, là biểu tượng cho sự gắn kết giữa con người với cội nguồn văn hóa và tâm linh.
Chiếc nón quai thao vì thế chính là hình ảnh thu nhỏ của Làng Diềm, nơi vẻ đẹp truyền thống được gìn giữ qua từng thế hệ, nơi mỗi nếp nhà, mỗi con người đều mang trong mình hơi thở và niềm tự hào về Quan họ. Theo NSƯT Minh Thùy, chiếc nón quai thao không chỉ là vật dụng để che mưa, che nắng mà còn là một đạo cụ biểu diễn quan trọng.
Từ nguồn gốc tên gọi giàu ký ức lịch sử đến hình thức duyên dáng và chiều sâu tâm linh, nón quai thao là biểu tượng văn hóa đa tầng không thể tách rời khỏi đời sống người Việt, đặc biệt ở miền quê Bắc bộ. Không chỉ tôn vinh vẻ đẹp kín đáo, e lệ của người phụ nữ xưa, nón quai thao còn giúp giữ sự trang nghiêm, thể hiện lòng thành kính và chừng mực trong không gian thiêng. Khi bước vào những làn điệu Quan họ, chiếc nón không chỉ là đạo cụ biểu diễn mà còn là vật trao duyên, là hiện thân của cái đẹp thanh nhã hòa cùng hồn dân ca.
.png)
Trong dòng chảy văn hóa ngàn đời của đất Việt, có những vẻ đẹp mộc mạc nhưng lại ẩn chứa cả hồn cốt dân tộc. Chiếc nón quai thao là một trong số đó – duyên dáng, thanh tao, từ lâu đã trở thành biểu tượng gần gũi và không thể thiếu trong không gian văn hóa Quan họ.
Khi người liền chị cất lên câu hát giao duyên, chiếc nón cũng nhẹ nhàng nghiêng theo nhịp điệu thắm tình, tạo nên một hình ảnh vừa mộc mạc, vừa đầy chất thơ. Không chỉ là vật dụng che nắng, che mưa, chiếc nón còn là điểm chấm phá làm tôn thêm vẻ dịu dàng, thanh lịch trong từng cử chỉ, từng lời ca của người Quan họ.
Ít ai biết rằng đằng sau vẻ đẹp mộc mạc ấy là cả một hành trình thủ công bền bỉ, được gìn giữ bởi những bàn tay miệt mài, lặng lẽ. Ở đó, từng đường khâu, sợi chỉ, từng lớp mo cọ và vành tre… đều mang hơi thở của ký ức, như một lời thì thầm nối dài nét duyên xưa qua năm tháng.
Làng Chuông – Chuyện của những vành nón duyên dáng
"Muốn ăn cơm trắng cá trê
Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông…"
Cách trung tâm Hà Nội khoảng 30 km về phía Nam, làng Chuông (xã Phương Trung, huyện Thanh Oai) từ lâu đã nổi tiếng là cái nôi của nghề làm nón truyền thống. Không ai biết chính xác nghề làm nón ở đây bắt đầu từ khi nào, nhưng theo lời kể của các bậc cao niên, nghề đã tồn tại được hàng trăm năm, gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân nơi đây.
Trong suốt chiều dài lịch sử, làng Chuông không chỉ sản xuất nón lá thông thường mà còn nổi tiếng với nhiều loại nón truyền thống khác như nón ba tầm, nón nhô, nón dấu, nón chóp và đặc biệt là nón quai thao. Loại nón này thường được sử dụng trong các dịp lễ hội, đặc biệt là trong nghệ thuật hát Quan họ của vùng Kinh Bắc.

Cấu trúc nón Quai thao
Nón quai thao thường có kích thước lớn, với đường kính từ 70 đến 80 cm, đủ để che rợp cả khuôn mặt người đội, tạo nên một khoảng không gian thoáng đãng như khung trời riêng của người phụ nữ xưa. Phần mặt phẳng của nón được lợp bằng lá gồi hoặc lá cọ, khéo léo ép phẳng và sắp xếp đều tay, tạo nên lớp phủ mịn màng, chắc chắn.
.png)
Ngay dưới mặt nón là thành nón - cao khoảng 10 tới 12 cm, được thiết kế bao quanh mép dưới, giúp định hình và tạo độ sâu cho nón. Điểm đặc biệt trong kết cấu của chiếc nón nằm ở phần trung tâm bên trong: một khối tròn vừa khít với đỉnh đầu người đội, được gọi là “cái khua”.
Nếu như phần thân nón tạo nên hình thể thì quai thao lại là chi tiết toát lên vẻ mềm mại và nữ tính. Quai thao được làm từ lụa tơ tằm - một loại tơ đặc biệt, có độ rủ, bóng nhẹ và bền dai. Khi đội, người phụ nữ khẽ giữ hai dải quai thao trước ngực, tạo nên một cử chỉ vừa dịu dàng, vừa thể hiện sự đoan trang, duyên dáng.
Màu sắc quai cũng phản ánh lứa tuổi và tình trạng hôn nhân của người phụ nữ xưa: trắng ngà dành cho thiếu nữ, trong khi tím hoặc đen thường dành cho phụ nữ đã có gia đình. Ở hai đầu quai, mỗi chùm quả cù có khoảng mười hai túm tua nhỏ, dài chừng 20 tới 25 cm rủ xuống, góp thêm nét mềm mại, bồng bềnh như những cánh tơ rung nhẹ theo từng bước đi.
Mô hình 3D của nón quai thao.
Từng công đoạn, từng hơi thở ký ức





Mỗi chiếc nón hoàn chỉnh là kết tinh của cả ngày trời làm việc miệt mài, và có thể mất nhiều ngày hơn tùy vào kích thước và mức độ cầu kỳ của từng chi tiết. Trong đó, riêng phần thêu thùa các chi tiết trang trí nón được đánh giá là công đoạn khó nhất, đòi hỏi sự tỉ mỉ và đôi mắt tinh tường để từng mũi khâu không sai lệch. Hơn cả một vật dụng che nắng che mưa, chiếc nón quai thao còn là biểu tượng của vẻ đẹp người phụ nữ Kinh Bắc, của một dòng chảy văn hóa dân gian không ngừng được nuôi dưỡng và gìn giữ qua các thế hệ.

Giữ lửa nghề nón: Thách thức và hy vọng
Giữa nhịp sống hiện đại, nghề làm nón quai thao ở làng Chuông, Hà Nội vẫn được duy trì, lặng lẽ nhưng bền bỉ. Không chỉ là một công việc mưu sinh, đây còn là một phần di sản văn hóa truyền thống, gắn bó với đời sống và ký ức nhiều thế hệ người dân nơi đây.
Mỗi chiếc nón được tạo nên không chỉ bằng đôi tay khéo léo mà còn là cả một hành trình đòi hỏi sự kiên nhẫn và tinh tế. Từ khâu chọn lá cọ, xử lý lá, uốn vành, dựng khung đến từng đường kim sợi chỉ khâu quai thao - mọi công đoạn đều mang theo dấu ấn của kinh nghiệm và sự nâng niu. Mỗi sản phẩm là một minh chứng sống động cho sự trân quý truyền thống.
Từng có lúc, ngọn lửa nghề tưởng như lụi tàn. Nghệ nhân Hải Yến - một nghệ nhân đã gắn bó với nghề hơn hai thập kỷ kể lại: “Trước đây, có thời gian nhiều người dân bỏ nghề nón vì cho rằng nghề không phát triển, thu nhập thấp.” Nhưng rồi trong những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của Nhà nước trong công tác bảo tồn và phát huy làng nghề truyền thống, cùng với những tín hiệu tích cực từ thị trường văn hóa - du lịch, không khí làng nghề đã dần ấm lại, chị Yến chia sẻ.
.jpg)
Nghệ nhân Hải Yến cho biết: “Nón quai thao bây giờ không chỉ dừng lại ở những mẫu truyền thống đơn giản. Tôi phải biến tấu nó thành nhiều kiểu dáng khác nhau để đáp ứng nhu cầu trang trí hiện đại. Thậm chí, chúng tôi còn bọc vải lụa, thêu hoa văn hoặc gắn hoa sen, lá sen lên nón để tạo nên những tác phẩm nghệ thuật độc đáo.” Những chiếc nón này không chỉ dùng để múa hát mà còn để chụp ảnh, trang trí nhà cửa, thu hút được sự quan tâm của cả giới trẻ.
.png)
Chính từ sự bền bỉ của các nghệ nhân, cùng với chính sách bảo tồn làng nghề và sự quan tâm ngày càng lớn từ cộng đồng, nghề làm nón quai thao đang dần hồi sinh. Không chỉ còn là vật dụng truyền thống, chiếc nón đã trở thành biểu tượng văn hóa đặc trưng gắn liền với miền quê Bắc bộ, được lưu giữ bằng chính đôi tay cần mẫn của những người vẫn ngày ngày gìn giữ nghề trong âm thầm nhưng với đầy tình yêu và sự hi vọng.
.png)
Nón quai thao không chỉ là dấu ấn của một thời, mà còn là sợi dây âm thầm nối liền quá khứ với hiện tại. Thế nhưng, giữa nhịp sống hiện đại nhiều đổi thay, chiếc nón ấy đang dần vắng bóng trong đời sống thường nhật. Việc bảo tồn nón quai thao giờ đây còn là giữ gìn một nét văn hóa đã ăn sâu vào tâm hồn người Việt. Bởi gìn giữ một chiếc nón cũng chính là gìn giữ một phần bản sắc – bình dị mà thiêng liêng của dân tộc.
Âm nhạc: AudioBay
Để làng nghề không tắt lửa trên mái rơm ký ức…
Giữa guồng quay hiện đại, khi các loại nón công nghiệp, mũ thời trang ngày càng phổ biến, việc gìn giữ nghề làm nón quai thao truyền thống đang đối mặt với không ít khó khăn.
Một trong những thách thức lớn nhất hiện nay là thiếu nhân lực kế cận, đặc biệt là lớp thợ trẻ am hiểu và yêu nghề. Không chỉ vậy, thị trường tiêu thụ cũng còn hẹp. Nón quai thao hiện chủ yếu được sử dụng trong biểu diễn nghệ thuật, lễ hội hoặc làm đồ trưng bày, khiến đầu ra thiếu ổn định. Chính vì thế, số lượng nghệ nhân gắn bó với nghề ngày càng giảm sút.
Trong bối cảnh đó, nghệ nhân Tạ Thu Hương được xem như một trong những “đầu tàu” trong việc tạo cơ hội việc làm và hỗ trợ bà con địa phương Làng Chuông giữ nghề. Xuất phát từ ký ức thuở bé cùng bà và mẹ khâu từng đường kim mũi chỉ, cô luôn đau đáu nỗi lo mai một làng nghề: “Tôi thấy người dân làm ra một cái nón rất khổ, chẳng hạn như phải bán mấy cái nón quai thao mới được một cân gạo, trong khi đó quá trình làm nón thì vô cùng vất vả.”

Từ những trăn trở đó, nghệ nhân Tạ Thu Hương đã tiên phong thành lập Hợp tác xã Mây tre nón lá Tạ Thu Hương. HTX hoạt động theo hướng chuyên môn hóa, sản xuất quy mô lớn, tập trung vào thị trường du lịch, xuất khẩu và quà tặng văn hóa. Cô nhấn mạnh: “Tôi là người ở làng, sinh ra ở làng, làng tôi có nghề thì tôi sẽ theo nghề. Tôi muốn phát triển nghề bằng cả du lịch làng nghề.”


Từ vài đơn hàng lẻ ban đầu, đến nay HTX đã sản xuất hơn 200 mẫu mã sản phẩm, mỗi tháng bán ra hàng nghìn chiếc nón với giá từ 30.000 đến 200.000 đồng. Các sản phẩm không chỉ là nón trắng truyền thống, mà còn có nón lụa, nón vẽ họa tiết, nón phối chất liệu hiện đại… đáp ứng thị hiếu trong nước và quốc tế. Hiện HTX đã có 6 sản phẩm đạt chứng nhận OCOP 4 sao và xuất khẩu sang nhiều quốc gia như Đức, Anh, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc…
Sự phát triển của HTX không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn tạo sinh kế cho người dân. HTX đã thu hút được đội ngũ thợ phụ chuyên các công đoạn như chẻ vòng, dựng khung, là lá, vẽ nón…, góp phần duy trì lao động tại địa phương. Cùng chí hướng, nghệ nhân Nguyễn Thị Yến chia sẻ: “Khi lượng đơn hàng tăng lên, một mình tôi không thể làm xuể. Tôi phải đào tạo thêm thợ phụ để làm những công đoạn như chẻ vòng, bót vòng, là lá, rẽ lá, dựng nón… Đó là cách mình tạo công ăn việc làm cho nhiều người trong làng, giúp họ có thu nhập ổn định ngay tại nhà.”
Hành trình tái sinh này mang lại sự kết nối ý nghĩa giữa kỹ thuật thủ công và giá trị kinh tế - văn hóa. Chiếc nón không chỉ được làm ra cho đẹp mà còn là sản phẩm có giá trị xuất khẩu, là phần hồn của làng quê được lưu giữ qua đôi tay và sự sáng tạo của những người thợ làng Chuông. Dưới những nỗ lực bền bỉ, nghề làm nón không chỉ được giữ lửa, mà còn có cơ hội phát triển mạnh mẽ qua từng thế hệ.
Là nhịp cầu văn hóa vươn ra thế giới
Không chỉ là một sản phẩm thủ công truyền thống, nón quai thao ngày nay còn đóng vai trò như một “sứ giả văn hóa” trong nhiều hoạt động giao lưu, ngoại giao quốc tế. Các nghệ nhân, đại diện làng nghề đã mang theo những chiếc nón duyên dáng này đến với các hội chợ thủ công mỹ nghệ, các chương trình giao lưu văn hóa nước ngoài… Mỗi chiếc nón không chỉ là món quà lưu niệm, mà còn là lời giới thiệu mộc mạc mà sâu sắc về văn hóa Kinh Bắc nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung.
Với ngọn lửa nghề vẫn chưa bao giờ tắt, những nghệ nhân như cô Hương chính là minh chứng sống cho sự bền bỉ ấy. Cô kể về hành trình từ tuổi 18 đã “ký được đơn hàng xuất khẩu đầu tiên”, đi chào hàng ở các điểm du lịch, tham gia các hiệp hội để quảng bá sản phẩm, và tự hào làm ra chiếc nón khổng lồ đường kính 3m6 cho Hội nghị APEC. Cô cũng mang nón làng Chuông đi khắp các nước như Nhật Bản, Malaysia để giới thiệu văn hóa Việt Nam.

Chính nhờ tâm huyết đó, làng Chuông giờ đây đã trở thành một điểm đến thu hút, nơi các học sinh, sinh viên, du khách nội địa và du khách quốc tế cũng thường xuyên về thăm quan, nghiên cứu, trải nghiệm các công đoạn làm nón lá và tự tay vẽ nón mang về. Đây là niềm hạnh phúc lớn lao của nghệ nhân làm nghề, khi nón làng Chuông không chỉ được biết đến rộng rãi trong nước mà còn vươn tầm quốc tế.
Chiếc nón quai thao, một biểu tượng thẩm mỹ và bản sắc, đang trải qua hành trình đầy thử thách để sống giữa dòng chảy hiện đại. Nhưng như vòng tròn bất tận của vành nón, cái đẹp mang trong mình gốc rễ văn hóa luôn có khả năng tái sinh, miễn là có những người gìn giữ, có những người yêu, và có những người tiếp nối.
Khi làn điệu dân ca Quan họ giữ lại vành nón xưa
Kể từ khi dân ca Quan họ được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2009, tỉnh Bắc Ninh đã nỗ lực triển khai nhiều chiến lược bảo tồn, trong đó việc duy trì biểu diễn định kỳ và mở rộng không gian trình diễn là một trong những trụ cột quan trọng.
Nằm ở trung tâm làng Diềm – vùng đất được mệnh danh là cái nôi của Quan họ cổ, Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh là một trong những điểm đến văn hóa đặc sắc bậc nhất của miền Kinh Bắc. Tại đây, hoạt động biểu diễn dân ca Quan họ được tổ chức định kỳ và bài bản, nhằm phục vụ nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của người dân và du khách.
Vào mỗi mùng Một âm lịch hàng tháng, tại hồ bán nguyệt trước nhà hát, du khách tứ phương lại được thưởng thức những làn điệu quan họ vang lên từ các liền anh liền chị đứng trên những chiếc thuyền rồng lững lờ trôi trên mặt nước. Sau nghi lễ dâng hương tại đền Cùng - giếng Ngọc linh thiêng, dòng người lại nối nhau qua hồ bán nguyệt phía trước Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Tại đây, du khách được thưởng thức những làn điệu quan họ duyên dáng vang lên từ những chiếc thuyền rồng lững lờ trên mặt nước, tái hiện sinh động một hình thức biểu diễn dân gian đặc sắc. Đây được xem là một nghi thức nghệ thuật độc đáo, mô phỏng lại hình thức hát Quan họ trên thuyền truyền thống từng phổ biến tại các lễ hội xưa của vùng Kinh Bắc.
Ngoài ra, trong khuôn viên Nhà hát Dân ca Quan họ, các chương trình biểu diễn chuyên đề cũng thường xuyên được tổ chức vào buổi tối cuối tuần và các dịp lễ lớn. Những tiết mục Quan họ cổ, Quan họ đối đáp, hay các làn điệu được dàn dựng công phu luôn thu hút đông đảo khán giả đến theo dõi.
Nhằm tạo đòn bẩy lan tỏa giá trị dân ca Quan họ, tỉnh Bắc Ninh cũng tích cực chỉ đạo và tổ chức nhiều chương trình biểu diễn quy mô lớn trong những năm gần đây. Tiêu biểu có thể kể đến Hội Lim – sự kiện văn hóa thường niên vào dịp Rằm tháng Giêng, thu hút hàng chục nghìn lượt người tham dự mỗi năm. Bên cạnh đó là các chương trình như “Không gian văn hóa Quan họ” tại phố đi bộ Hồ Gươm (Hà Nội), các đêm nghệ thuật nằm trong Tuần Văn hóa – Du lịch Bắc Ninh, hay chuỗi biểu diễn tại Festival “Về miền quan họ - 2023” với chủ đề “Miền di sản – Tinh hoa và bản sắc”.
Không chỉ dừng lại ở hoạt động biểu diễn, nhà hát còn mở rộng phạm vi lan tỏa văn hóa quan họ bằng cách tiếp cận trực tiếp tới giới trẻ và vươn ra thế giới.
Theo nghệ sĩ Nguyễn Văn Tuấn – Trưởng đoàn Nghệ thuật 2 của Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh, trong những năm gần đây, đơn vị đã chủ động tổ chức hàng loạt buổi giao lưu, tọa đàm, biểu diễn kết hợp giới thiệu văn hóa Quan họ dành riêng cho học sinh, sinh viên. Anh cho biết: “Nhà hát chúng tôi vẫn thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, giới thiệu về văn hóa quan họ dành cho đối tượng học sinh, sinh viên. Các trường học cũng thường xuyên liên hệ với nhà hát và đưa học sinh, sinh viên đến tìm hiểu về văn hóa quan họ, cũng như thưởng thức các chương trình biểu diễn dân ca quan họ Bắc Ninh.”
Vươn ra khỏi biên giới quốc gia, các đoàn nghệ thuật thuộc nhà hát còn thường xuyên tham gia biểu diễn tại các sự kiện giao lưu văn hóa quốc tế. Theo chia sẻ của anh Tuấn, các nghệ sĩ Quan họ đã có cơ hội đưa làn điệu Kinh Bắc đến hơn 10 quốc gia, từ đó giới thiệu sâu rộng hơn giá trị của di sản được UNESCO vinh danh. “Khán giả quốc tế tỏ ra rất thích thú,” anh kể, “Nhiều người còn bày tỏ mong muốn được một lần đặt chân tới vùng đất Kinh Bắc - quê hương của Quan họ, để được đắm chìm sâu hơn vào loại hình văn hóa độc đáo này.”
.png)
Việc đưa Quan họ lên nhiều sân khấu dưới nhiều hình thức biểu diễn không chỉ góp phần bảo tồn âm nhạc truyền thống, mà còn làm sống dậy vai trò của chiếc nón quai thao trong đời sống đương đại. Nhờ tiếng hát liền anh, liền chị, chiếc nón càng trở nên duyên dáng, ý nghĩa trong tâm thức công chúng.
Chiếc nón cổ trở lại giữa lòng nghệ thuật đương đại
Trong nghệ thuật hiện đại, chiếc nón quai thao không chỉ được nhìn nhận như một món đồ truyền thống, mà đã trở thành một biểu tượng mang tính nhận diện vùng miền, bản sắc. Khi được đưa vào các tác phẩm đương đại, nó không mất đi giá trị cũ mà được gắn thêm nhiều lớp ý nghĩa mới phù hợp với tư duy thẩm mỹ ngày nay.
Sự cách tân trong nghệ thuật cho phép chiếc nón được biểu đạt theo nhiều hình thức khác nhau – từ thiết kế thời trang, nhiếp ảnh, sân khấu, đến truyền thông thị giác. Những đường nét, cấu trúc và tinh thần của nón có thể được giữ lại, nhưng phương thức thể hiện, chất liệu, bối cảnh đã thay đổi, giúp chiếc nón “sống lại” trong đời sống nghệ thuật hiện đại.
“Bắc Ninh vốn trọng chữ tình
Nón quai thao em đợi ở sân đình”
.png)
Lời giới thiệu vừa nền nã vừa tự hào về vùng đất quan họ, nơi sản sinh ra những làn điệu ngọt ngào cùng chiếc nón đặc trưng đã mở đầu MV Bắc Bling của ca sĩ Hòa Minzy, kết hợp với producer Masew và NSƯT Xuân Hinh. Tác phẩm là một ví dụ tiêu biểu cho việc văn hóa truyền thống có thể được tái sinh mạnh mẽ trong nghệ thuật hiện đại.
Lấy cảm hứng từ vùng Kinh Bắc, MV đem đến một cách thể hiện mới mẻ và trẻ trung: từ phần nhạc pha trộn giữa dân gian và EDM, đến phần hình ảnh được dàn dựng công phu.
Trong MV, chiếc nón quai thao không chỉ là một đạo cụ mang tính biểu tượng mà còn được cách tân để hoà vào tinh thần trẻ trung, sôi động của âm nhạc hiện đại. Hình ảnh Hòa Minzy đội chiếc nón quai thao cách tân hay các vũ công sử dụng nón nhảy đầy sáng tạo đã tạo nên một không gian trình diễn vừa truyền thống vừa đương đại. Không gian trong MV cũng gắn bó mật thiết với đời sống quan họ như cảnh thuyền trên hồ Bán Nguyệt, hội Lim,...
Các yếu tố ấy không chỉ xuất hiện như bối cảnh mà được sắp đặt như một phần linh hồn của câu chuyện âm nhạc. Chiếc nón lúc này không còn đơn thuần là vật dụng gắn với quá khứ, mà trở thành biểu tượng văn hóa có khả năng giao tiếp với công chúng trẻ, góp phần làm sống dậy niềm tự hào về vùng đất và truyền thống dân tộc.
Chiếc nón không còn chỉ là phụ kiện biểu diễn mà đã trở thành điểm nhấn tạo hình, gợi mở chiều sâu văn hóa trong ngôn ngữ thiết kế. Khi xuất hiện trên sàn runway hay trong các bộ ảnh nghệ thuật, thiết kế nón quai thao mang theo cả tinh thần dân tộc lẫn hơi thở đương đại.





Chiếc nón quai thao, khi bước vào không gian nghệ thuật đương đại, không chỉ đóng vai trò như một chất liệu tạo hình mà trở thành nhịp cầu nối quá khứ với hiện tại. Việc đưa biểu tượng truyền thống này vào các sáng tạo mang hơi thở thời đại không chỉ giúp di sản trở nên gần gũi hơn với giới trẻ, mà còn khơi gợi niềm tự hào và ý thức gìn giữ văn hóa từ chính những thế hệ kế cận.
Giữa một thế giới đổi thay nhanh chóng, chiếc nón quai thao với vẻ đẹp nền nã, tinh tế vẫn đang được người trẻ gìn giữ, làm mới và lan tỏa theo cách riêng của mình. Và chính từ những lần xuất hiện tưởng như nhỏ bé ấy, một phần hồn Việt vẫn đang âm thầm hiện hữu, không chỉ trong lễ hội, nghệ thuật, mà trong chính ý thức gìn giữ và tự hào văn hóa của thế hệ hôm nay.