Bi kịch mang tên tảo hôn trên rẻo cao Kỳ 2: Những người mẹ chưa kịp “lớn”
Thiên nhiên cằn cỗi, đời sống cơ cực, hay những tập tục lạc hậu khiến bóng ma tảo hôn vẫn bao phủ nhiều bản làng người Mông. Hệ lụy là những đứa trẻ sinh ra trong hoàn cảnh thiếu thốn và những cô gái chưa kịp trưởng thành bị đẩy vào vòng xoáy cơ cực của một đời làm vợ, làm mẹ.
Nỗi cô đơn giữa trùng điệp núi rừng
Thời gian lặng lẽ trôi qua, Đào Thị H (bản Lân Vai, xã Dân Tiến, tỉnh Thái Nguyên) hồi tưởng lại cuộc sống sau một năm về nhà chồng. Ngày em quyết định bước vào hôn nhân, cả bố lẫn mẹ đều không phản đối. Của hồi môn chỉ vỏn vẹn một chiếc tủ gỗ và chiếc xe Honda cũ kỹ, tuổi thọ còn nhiều hơn cả tuổi đời của em, phủ đầy đất đỏ trên những cung đường rừng núi.
.jpg)
Kể từ đó, ngày nào với H cũng giống như một vòng lặp không dứt. Mờ sáng, em thức dậy cho lợn ăn, nấu bữa sáng cho bố mẹ chồng. Khi họ đi làm, căn nhà nhỏ chỉ còn lại hai mẹ con. H lặng lẽ quét dọn, tất bật với đứa con mới vài tháng tuổi. Vì con còn bú mẹ, em thường không nấu ăn trưa – đôi khi chỉ là bát cháo loãng cùng ít rau. Chiều xuống, khi hoàng hôn buông trên sườn dốc, em lại lúi húi nấu cơm chờ bố mẹ chồng trở về.
Cuộc sống của cô gái 17 tuổi giản đơn đến quạnh quẽ. Không smartphone, chẳng giải trí, khi buồn quá, em chỉ xuống quán nước dưới chân dốc ngồi đôi ba câu chuyện, rồi lại lặng lẽ quay trở về nhà.
Chồng đi làm xa, cả tháng mới ghé nhà một lần. Kể về những áp lực đè nặng lên mình, H lặng người, ánh mắt hướng về khoảng xa xăm, đôi tay không ngừng xoắn vào nhau: “Lúc con quấy khóc, ở một mình, em tủi thân lắm, nhưng cũng chẳng biết chia sẻ với ai. Nói thì nó (chồng) thì cũng chẳng quan tâm đâu. Khóc chán rồi thì em tự nín thôi” - H chia sẻ.
Có những lần con ốm, hai mẹ con chỉ biết ôm nhau bất lực. Ở tuổi 17, chưa có đủ kĩ năng và kinh nghiệm, H chỉ biết dùng tình yêu thương và bản năng của người mẹ chăm sóc cho con, nên khi thì dăm viên thuốc mua ở tiệm, lúc lại là vài lá thuốc hái vội trên rừng.
Những lần hiếm hoi về thăm nhà, nhưng sự mệt mỏi vì mưu sinh sớm khiến người chồng trẻ lầm lũi, ít trò chuyện. “Hai vợ chồng không mấy khi tâm sự, bố cũng ít khi bế con lắm.” – H cười nhạt, nụ cười pha lẫn chua xót, đôi mắt nặng trĩu ưu phiền.
Suốt cả buổi trò chuyện, chỉ có một khoảnh khắc hiếm hoi chúng tôi bắt gặp ánh sáng lóe lên trong đôi mắt H, khi tôi hỏi em về dự định đặt tên cho đứa nhỏ. H khẽ mỉm cười: “Đợi sang năm, đủ tuổi, em sẽ đi làm giấy khai sinh cho con. Em nghĩ ra tên rồi ạ, con sẽ tên là Ngọc Ánh.”
Có lẽ, Ngọc Ánh – đứa con gái nhỏ – chính là tia sáng duy nhất chiếu sáng cuộc đời của người mẹ 17 tuổi giữa nơi núi rừng non cao.
Một vòng luẩn quẩn nghèo - đói
Ở Lân Vai, phụ nữ một mình ở nhà như M không phải là hiếm. Men theo con đường cuối bản, chúng tôi dừng lại trước một căn nhà gỗ xập xệ, phủ dày một lớp bụi thời gian. Trước hiên, Lý Thị M đang ngồi bế đứa con trai trong lòng. Đứa bé thi thoảng ho lên những đợt ho dữ dội, còn người mẹ cứ không ngừng vắt mũi, xoa ngực để dỗ dành đứa con nhỏ của mình.
Bước vào nhà, tôi sững lại khi thấy trong góc nhà vẫn còn một em nhỏ nữa. Đứa bé nằm co ro trên tấm chiếu được trải thẳng xuống nền đất, quần áo lấm lem bùn, không chăn, cũng chẳng có lấy một tấm màn. Nghĩ em đang ngủ, tôi quay sang hỏi M, nhưng chị khẽ lắc đầu: “Sáng nay con dậy thấy đau họng, không kêu lên được rồi nằm li bì cả ngày, chẳng đi học được”.
.jpg)
Hỏi chuyện ra mới biết, cũng như H, M lấy chồng khi vừa tròn 16 tuổi. Suốt 7 năm làm vợ, làm mẹ của hai đứa trẻ, hầu hết thời gian chị một mình gồng gánh nhà cửa, bởi chồng đi làm gỗ, làm keo, hai đến ba ngày mới về. Con còn nhỏ, M chẳng thể đi làm nương hay đi công ty. Thỉnh thoảng, nhờ chị dâu trông hộ con, chị lại tranh thủ ai trong làng nhờ gì thì làm nấy, kiếm thêm ít đồng ra đồng vào.
Với M, trong những lúc chồng vắng nhà, vất vả nhất là khi con bị ốm, phải đi viện. Chị tâm sự: “Gần nhất là bệnh viện Đình Cả, nhưng con ốm nặng thì phải đưa lên bệnh viện TP. Thái Nguyên, cách nhà 70km. Đường xa vất vả, nhiều khi mấy mẹ con phải tự đi xe máy giữa đêm, còn nặng quá thì gọi xe cấp cứu”.
Nghe chị kể, tôi chợt lặng người. Trước mắt hiện về những cung đường rừng núi hun hút mà chúng tôi vừa băng qua: tối đặc, không một ngọn đèn đường, có đoạn đi hàng cây số mới thấy nhà dân. Nghĩ đến cảnh chỉ có ba mẹ con trên con đường ấy, lòng tôi se thắt lại.
.jpg)
Cả hai đứa con của M đều bị viêm phổi, suy hô hấp nhẹ. Nhắc đến chuyện đưa con đi viện, chị chỉ biết thở dài. “Có lần, con ốm nặng phải nằm viện 15-16 ngày, viện phí cũng vì thế mà lên đến cả chục triệu đồng. Một tháng chồng đi làm được khoảng 8-9 triệu, tháng nào tằn tiện thì cũng tạm đủ, nhưng có tháng con ốm hai lần thì cũng không đủ được. Đến lúc đẻ thằng út này thì khổ lắm, suốt ngày chỉ biết đi viện thôi, có lần vừa đi viện về được 4-5 ngày đã lại đi tiếp rồi”, M bộc bạch.
Những vết rạn chưa lành
Mỗi người phụ nữ chúng tôi gặp ở nơi đây đều mang trong mình một câu chuyện riêng, với những nỗi nhọc nhằn ít ai thấu. Trong những ngày cuối ở Thái Nguyên, trước khi trở về Hà Nội, chúng tôi dạo quanh bản Lân Thùng để ghi lại thêm vài hình ảnh về đời sống dân sinh. Ở đây, chúng tôi tình cờ gặp Lồng Thị B – cô gái gầy guộc với ánh mắt rụt rè, hiện chỉ mới 21 tuổi.
Thoạt nhìn, khó ai đoán được tuổi thật của B. Gương mặt còn nguyên nét trẻ thơ, nhưng mái tóc đã điểm vài sợi bạc, làn da sạm đen vì cái nắng gió vùng cao. Giọng em yếu ớt, ngập ngừng thừa nhận mình đã lấy chồng từ năm 16 tuổi. Điều khiến chúng tôi lặng người hơn cả: ở tuổi 21, B đã làm mẹ của ba đứa con trai. Hai bé lớn đã đến trường mẫu giáo, đứa út mới tròn một tuổi, nằm quấn quýt trong vòng tay mẹ, thi thoảng bật khóc vì cơn sốt do những vết mụn nhọt lạ trên đầu.
.jpg)
Chúng tôi bước vào căn nhà nhỏ của B, nơi bốn mẹ con sinh sống, cảm nhận sự trống trải đến nao lòng: ba chiếc ghế nhựa, một cái giường, một tủ bát nhỏ và bếp củi ngổn ngang tro tàn. Nền nhà được làm bằng đất khiến chúng tôi không khỏi chạnh lòng nghĩ về những ngày mưa bão, lũ quét… bốn mẹ con sẽ xoay xở ra sao.
Trong căn nhà không có quạt và không biết có phải do sự hồi hộp, lo lắng khi đối diện với người lạ, từng giọt mồ hôi cứ lăn dài trên gương mặt B. Em khẽ cười ngượng ngùng, bảo rằng gia đình vốn quen rồi, từ trước đến nay chưa bao giờ dùng quạt. Đứa con út vẫn say sưa uống dòng sữa ngọt lành từ cơ thể gầy guộc của người mẹ, thỉnh thoảng lại quẫy đạp, giãy giụa như muốn mẹ đứng lên vỗ về cho dịu cơn khó chịu trong người.
Trò chuyện với chúng tôi, B chia sẻ, em đã nghỉ học từ năm lớp 9, từ đó ở nhà quẩn quanh nuôi con, vì chồng đi làm công ty xa. Khi được hỏi về cuộc sống sau khi lấy chồng, B chỉ cười chua chát: “Khác lắm chị ạ, lấy chồng khổ lắm.” Rồi em đưa bàn tay gầy guộc đặt lên vết sẹo trên bụng, giọng trầm xuống: “Em cũng yếu hơn, cả ba lần đều phải đẻ mổ, nên giờ chẳng còn sức mà làm việc nặng nữa”
Những lần sinh mổ cùng với chứng thiếu máu khiến sức khỏe B ngày càng hao kiệt. Nhưng thuốc bổ hay sữa dinh dưỡng là điều xa xỉ, bữa ăn thường chỉ có cơm chan nước rau, thậm chí có khi chỉ chan nước lọc cho qua bữa. Tôi xót xa nhìn em, ở cái độ tuổi mà chúng tôi - những cô cậu sinh viên năm cuối, tràn đầy ước mơ và hoài bão về tương lai, thì B đã chôn tuổi trẻ trong căn nhà nhỏ, cuộc sống chỉ còn biết xoay quanh ba đứa con thơ.
.jpg)
Tiếng máy bay rền rĩ xé ngang bầu trời. B ngẩng đầu lên cười, hồn nhiên bảo đó là “đồng hồ” của gia đình: “Nghe máy bay qua là biết 10 giờ rồi. Không biết chuyến bay ấy đưa người ta đi đâu chị nhỉ?” – em hỏi tôi, đôi mắt ánh lên chút tò mò hiếm hoi.
Nhà bố mẹ đẻ ở xa nên ít khi qua lại. Chỉ khi B sinh con, bố mẹ mới đến thăm. Nhắc đến những ngày đầu tập làm mẹ, em khẽ ngượng: “Ban đầu chưa biết cho con bú, chưa biết tắm cho con, may có mẹ chồng chỉ dạy. Rồi cũng dần quen”
.jpg)
Chúng tôi chào tạm biệt em khi ánh mặt trời đang lặn dần phía bên kia sườn núi. Dù chỉ gặp nhau trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng có lẽ, em đã hoàn toàn gỡ bỏ lớp phòng bị và yêu quý tôi như những người bạn tri âm, tri kỷ, có thể chia sẻ nỗi lòng. Em địu con sau lưng, chạy theo sau xe chúng tôi để nói lời tạm biệt. Hình ảnh cô gái bé nhỏ với đứa con nằm ngủ yên bình phía sau tấm lưng gầy gò đã ám ảnh chúng tôi mãi đến sau này.