Chuyên đề

Bản giao hưởng đồng quê (Kỳ 1): Tiếng vọng từ miền ký ức

Gia Khánh - Linh Chi 22/09/2025 00:39

Không cần ánh đèn rực rỡ từ những sân khấu lớn cũng chẳng cần đến sự hào nhoáng ở vẻ bề ngoài, nghệ sĩ đích thực đôi khi lại là những người luôn âm thầm gìn giữ và theo đuổi nghệ thuật. Chính nhờ những con người ấy, nghệ thuật mới trở nên gần gũi, sống động và bền lâu.

Nép mình bên dòng sông Thương êm đềm, làng Then - ngôi làng nhỏ thuộc xã Thái Đào, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, dường như vẫn giữ được nhịp sống chậm rãi, trầm tĩnh giữa những đổi thay của thời cuộc. Nhưng ẩn sau dáng vẻ yên bình, mộc mạc ấy lại có một điều đặc biệt: Suốt hàng chục năm qua, ngôi làng này đã gắn liền với một phong trào nghệ thuật hiếm có ở vùng quê – phong trào chơi đàn vĩ cầm.

1.jpg
Cổng vào làng Then. (Ảnh: Gia Khánh, Linh Chi)

Để hiểu rõ hơn về câu chuyện ấy, chúng tôi ghé thăm làng Then vào một buổi sáng đầu thu, tìm gặp những người đã đánh lên những điệu đàn đầu tiên. Hỏi người dân về truyền thống vĩ cầm nơi đây, ai cũng nhắc đến ông Nguyễn Văn Bìa - một trong những người đầu tiên tham gia vào phong trào âm nhạc của làng và lặng lẽ gìn giữ mạch nguồn âm nhạc suốt gần 70 năm qua.

Từ con ngõ nhỏ đi vào, ngôi nhà năm gian của ông Bìa nằm lặng lẽ như một chứng nhân của bao thăng trầm lịch sử. Mái ngói đỏ phủ một lớp rêu xanh loang lổ. Trước nhà là mái hiên rộng trải dài với những hàng cột gỗ đã lên nước bóng. Bước qua khoảng sân gạch, hiện lên trước mắt chúng tôi là sự mộc mạc của một nếp nhà Bắc Bộ xưa, một vẻ đẹp nhuốm màu thời gian mà vẫn đầy trang nhã, tinh tế.

Chính trong không gian ấy, những câu chuyện đầu tiên về cây đàn vĩ cầm ở làng Then đã được kể lại qua dòng hồi tưởng của ông Bìa, một cụ ông đã ngoài 90 với mái tóc bạc phơ, gương mặt nhăn nheo nhưng trong đôi mắt vẫn ngập tràn niềm đam mê âm nhạc.

Khởi nguồn thanh âm

2.jpg
Ông Nguyễn Văn Bìa say sưa kể chuyện làng Then. (Ảnh: Gia Khánh, Linh Chi)

Tuổi 90 - ngưỡng tuổi mà người ta chẳng còn đo bằng năm tháng, mà đo bằng những mùa ký ức đã đi qua. Ví như một đời cây đã bám rễ sâu vào mảnh đất quê hương, ông Bìa minh mẫn tới lạ, như thể trí nhớ và tâm hồn chưa chịu già đi mặc cho dấu vết thời gian đã hằn in lên nét mặt. Khi được hỏi về khởi nguồn của phong trào chơi nhạc vĩ cầm, ông vui hẳn lên, ánh mắt vốn đục mờ bỗng sáng rực, như thể vừa chạm tới một mảng ký ức nào đó đã nằm yên dưới lớp bụi của thời gian.

Ông nhìn xa xăm rồi chậm rãi nhớ lại: “Vốn ban đầu, làng này chỉ có đội chơi các loại nhạc cụ truyền thống như đàn bầu, đàn nhị, đàn sáo,... Cho tới năm 1947, khi có đoàn về diễn tại làng, mang theo các loại nhạc cụ từ phương Tây như đàn măng-đô-lin, kèn ha-mo-ni-ca, chúng tôi ngay lập tức bị thu hút bởi âm thanh ấy. Chính vì thế, người dân mới quyết định chuyển sang chơi các loại nhạc cụ đó và thành lập nên Đội văn nghệ làng Then từ năm 1952”.

Tình yêu và niềm đam mê âm nhạc của người dân làng Then đã sớm nảy nở và hình thành trong đời sống của họ. Đó là minh chứng cho đời sống tinh thần phong phú, sâu sắc, nơi âm nhạc được xem là một phần máu thịt không thể tách rời. Cũng vì lẽ đó, những giá trị văn hóa, nghệ thuật luôn được người dân nơi đây coi trọng và gìn giữ qua nhiều thế hệ.

Ông Bìa nhấp ngụm trà, rồi tiếp tục dòng hồi tưởng: “Vào những ngày giặc Pháp còn đô hộ, anh Bê, con một gia đình tư sản ở Bắc Giang về làng Then sơ tán, mang theo cây đàn vĩ cầm. Tôi và thanh niên trong làng lúc bấy giờ rủ nhau đi xem thử cây đàn ấy. Anh Bê lúc đó chừng đôi mươi, dáng thư sinh, áo sơ mi quần âu, lại biết chơi nhạc cụ Tây. Khi anh đánh lên những nốt đầu tiên của “Áo mùa đông” (Đỗ Nhuận) và “Tiếng thu” (Phạm Duy), chúng tôi cảm tưởng như anh ấy là người từ trên trời rơi xuống.”

Có lẽ, tiếng đàn ngày đó đã chạm tới trái tim những chàng thanh niên ấy, như một làn gió mới thổi vào trong mọi giác quan. Khoảnh khắc bình dị và nhỏ bé ấy chính là khởi nguồn cho cảm thức và tình yêu với cây đàn vĩ cầm của họ, cũng chính là khởi đầu của một mạch nguồn cảm xúc đã chảy suốt 70 năm qua.

Thế nhưng, có một điều khiến chúng tôi không khỏi băn khoăn: Dẫu say mê tiếng đàn tới vậy nhưng trong những năm tháng khó khăn, khi gánh nặng cơm áo đang đè nặng từng ngày, thế hệ khi ấy đã lấy gì để nuôi dưỡng một niềm say mê tưởng chừng như vô cùng xa xỉ? Cụ Bìa khẽ cười, giọng trầm ấm, tâm sự: “Năm 1958, sau khi đội văn nghệ thôn Then giành giải nhất tại hội diễn ở tỉnh cùng phần thưởng là một chiếc máy hát, dân làng lại càng muốn học đàn vĩ cầm. Khi ấy, chúng tôi đã tìm đến trưởng Ty Văn hoá Bắc Giang để xin thầy về dạy. Sau đó, Ty Văn hoá cử anh Đỗ Bài – người Thị Cầu, Bắc Ninh, tốt nghiệp trung cấp vĩ cầm – về làng. Tin vui lan nhanh, bà con phấn khởi, gom góp bán trâu, bán lợn, đổi thóc… để mua đàn.”

Nói đến đây, ông cụ khẽ mở chiếc rương mà ông cất cẩn thận trên bàn thờ của gia tiên. Ông cho chúng tôi xem những tờ hoá đơn cũ, có tờ từ tận những năm 1958.

3.jpg
Những tờ hoá đơn mua đàn từ ngày xưa của ông Bìa. (Ảnh: Gia Khánh, Linh Chi)

Ông kể rằng hồi ấy, một cây đàn giá tới 13 vạn đồng, bằng hai con trâu, nhưng niềm say mê âm nhạc đã khiến mọi người quyết tâm mua. “Tôi còn đạp xe lên tận Hà Nội để mua một chập 11 cây – tôi lấy cello, ông Viết lấy viola”, ông vừa lật từng tờ hóa đơn, vừa kể. Ngày 16/1/1959, buổi học đầu tiên với thầy Đỗ Bài được tổ chức. Từ đó, phong trào vĩ cầm của làng Then chính thức ra đời, mở ra một hành trình âm nhạc bền bỉ mà nhiều lớp người dày công gìn giữ.

Âm vang đọng lại

4.jpg
Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp âm nhạc” của ông Nguyễn Văn Bìa. (Ảnh: Gia Khánh, Linh Chi)

Chúng tôi đưa mắt nhìn lên những bức tường cũ của căn nhà, nơi có những bằng khen, kỷ niệm chương được treo ngay ngắn, cẩn thận. Đó không chỉ là niềm tự hào mà còn là minh chứng cho sự nỗ lực của cả một thế hệ. Nhìn vào chúng, ông chậm rãi nhớ về những lần cả đội được gặp Bác Hồ, gặp cố Tổng Bí thư Trường Chinh, hay vinh dự được phục vụ tại các kỳ đại hội. Những khoảnh khắc ấy đã trở thành dấu son trong đời, là “niềm hạnh phúc lớn lao không gì sánh được”, ông nhắc lại.

5.jpg
Ông Bìa xem lại cuốn sổ tay ghi chép về lịch sử của làng Then. (Ảnh: Gia Khánh, Linh Chi)

Nói hồi, ông chậm rãi lấy ra cuốn sổ tay mà ông vẫn gìn giữ suốt nhiều năm. Với ông, đó không chỉ là cuốn sổ đơn thuần, mà là những thước phim ghi lại ký ức của cả làng Then và Câu lạc bộ vĩ cầm nơi đây.

Những trang giấy đã nhuốm màu thời gian, nhưng từng nét chữ, từng mẩu tin báo cũ được dán ghép vẫn còn nguyên vẹn. Lật giở từng trang, chúng tôi như được nghe lại tiếng đàn thuở ban đầu, thấy lại bóng dáng của những thành viên thế hệ đầu tiên, và cảm nhận được niềm say mê chưa bao giờ tắt của người dân làng Then dành cho cây vĩ cầm.

Khúc chuyển giao

Thế nhưng rồi có những thời khắc con người phải gác lại niềm đam mê để bước vào vòng xoáy của thời cuộc. Đội nhạc ngày ấy vì chiến tranh mà mỗi người một ngả, những cây đàn nằm im trong góc nhà, tưởng chừng sẽ chỉ còn là kỷ niệm. Nhưng trong lòng những thành viên ngày ấy, tình cảm với cây vĩ cầm chưa bao giờ tắt.

Sau này, ông Nguyễn Văn Bìa cùng ông Nguyễn Hữu Đưa quyết định mở lớp dạy đàn cho con cháu, với mong muốn gìn giữ và truyền lại ngọn lửa ấy cho thế hệ sau. Và trong lớp học nhỏ bé ấy, người con trai cả của ông Bìa - Nguyễn Văn Trường - là một trong những học trò đầu tiên, cũng là gương mặt tiêu biểu của thế hệ tiếp nối.

6.jpg
Bác Nguyễn Văn Trường đang chăm chút cho cây đàn của mình. (Ảnh: Gia Khánh, Linh Chi)

Cũng ngay lúc này, chúng tôi có dịp gặp bác Trường – để nghe bác kể về hành trình lớn lên cùng tiếng đàn, về những kỷ niệm, những khó khăn và cả những trăn trở khi đứng ở ranh giới giữa việc giữ gìn truyền thống và đối mặt với đổi thay của thời cuộc.

Ấn tượng đầu tiên của chúng tôi về bác Trường là một người có vẻ ngoài giản dị, chất phác. Thế nhưng ít ai biết được, đằng sau dáng vẻ chân chất ấy là một người đã dành cả đời để gắn bó với âm nhạc. Khi được hỏi về cơ duyên đến với cây đàn, bác Trường cười hiền hậu rồi thong thả kể lại: “Bác được tiếp xúc với cây đàn từ rất sớm, khi ấy bác mới 12 - 13 tuổi. Vào thời điểm đó, chiến tranh vẫn còn, điều kiện khó khăn nhưng phong trào chơi đàn vĩ cầm ở làng vẫn diễn ra sôi nổi. Nhà nối nhà, người nối người, cứ thế mà phong trào ấy được truyền từ đời này qua đời khác”. Có thể thấy, chính nền tảng vững chắc từ thế hệ trước - những người mang trong mình niềm đam mê âm nhạc - đã nuôi dưỡng và gieo mầm tình yêu với cây đàn bên trong lớp trẻ ngày ấy, để từ đó trở thành hành trang và tiền đề cho những chặng đường sau.

Bác Trường kể, phong trào vĩ cầm ở làng không chỉ giữ được hơi thở của thế hệ cha anh, mà nay còn có cả một tập thể vững vàng cùng nhau duy trì, phát triển. “Giờ đội có 13 thành viên”, bác Trường nhẩm tính: “Có người là nông dân, có người từng học trường Văn hoá nghệ thuật Hà Bắc, có bác chơi đàn ở đoàn quân khu Tả Ngạn, rồi một chị từng học viola ở Nhạc viện Hà Nội…”

Nghe bác kể, chúng tôi có cảm giác như đang được giới thiệu về một gia đình lớn. Một “gia đình” với nhiều xuất thân, mỗi thành viên lại mang theo một câu chuyện riêng, một trải nghiệm khác nhau, nhưng khi đứng cạnh nhau, họ tạo thành một tập thể đồng điệu. Người này truyền đạt kiến thức cho người kia, người có kinh nghiệm lại dìu dắt người mới, từng bước chắp nối để cùng nhau tạo nên những bản hoà âm trọn vẹn. Ở làng Then, vĩ cầm không đơn thuần là nhạc cụ mà là minh chứng sắt son cho sự đồng lòng của cả một cộng đồng và khát vọng gìn giữ một giá trị văn hoá giữa nhịp sống đang không ngừng đổi thay.

Nốt lặng giữa bản hòa ca

Tiếng đàn ấy dẫu mang lại nhiều niềm vui, song chặng đường tiếp nối phong trào ấy chưa bao giờ là dễ dàng. Khi nhận được hỏi về những khó khăn mà câu lạc bộ phải đối diện, bất giác, bác Trường lặng đi vài giây, rồi kể lại bằng một giọng trầm ấm: “Cái khó nhất, dĩ nhiên vẫn là miếng cơm manh áo. Bên cạnh việc tập luyện, ai nấy đều phải lo toan việc đồng áng, mưu sinh. Có những người đang dở tay với việc đồng áng lại phải tạm gác lại để ra tập với anh em rồi lại ra làm tiếp”. Khi nghe bác kể đến đây, chúng tôi lặng đi, cảm nhận rõ nỗi trăn trở về câu chuyện cơm áo. Với họ, việc biểu diễn dường như chỉ mang lại niềm vui tinh thần bởi thù lao kiếm được đôi khi không đủ để trở thành nguồn sống.

Bên cạnh đó, Câu lạc bộ Vĩ cầm làng Then cũng đang loay hoay trong việc tìm hướng đi mới. Sự hiện diện của họ trong các sự kiện, hội diễn phần nhiều còn phụ thuộc vào lời mời hơn là chủ động kết nối. Chia sẻ với chúng tôi, Bác Trường kể đã từng tìm cách liên hệ với một số công ty biểu diễn để mở rộng cơ hội, song cũng không mấy thuận lợi. Hơn nữa, nhiều thành viên vốn quen đứng trong dàn nhạc, nên khi cần tách ra độc tấu hay song tấu lại gặp không ít những trở ngại. Bởi lẽ, trong dàn nhạc, mỗi người chỉ phụ trách một phần bè, còn khi đứng một mình, họ phải tự gánh cả giai điệu, tiết tấu lẫn cảm xúc. Đó chưa bao giờ là một điều dễ dàng.

Tưởng chừng như những khó khăn ấy rồi đây sẽ là rào cản khiến cho con người ta bị nản chí mà dần đánh mất đi đam mê. Ngay cả chúng tôi nghe xong cũng tự hỏi rằng phong trào ấy liệu có bị mai một dần và chỉ còn lại trong ký ức. Ấy vậy mà, khi được hỏi về việc từ bỏ tình yêu vĩ cầm ấy, đôi mắt của bác Trường như bừng tỉnh, ánh lên sự kiên định và chắc chắn: “Khó đến mấy cũng phải giữ. Không có ai trong đoàn nghĩ tới việc bỏ cuộc dù chỉ là một suy nghĩ thoáng qua.”

Có lẽ, với họ, tình yêu với cây đàn chẳng khác nào một sợi dây bền chặt, một mạch nguồn lặng lẽ chảy suốt dọc nhiều thế hệ, cũng như bóng trăng theo con nước, lúc đầy lúc vơi nhưng chẳng khi nào mất đi…

    Nổi bật
        Mới nhất
        Bản giao hưởng đồng quê (Kỳ 1): Tiếng vọng từ miền ký ức
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO